Sách của thầy Thích Nhất Hạnh

Sách của thầy Thích Nhất Hạnh

Giới thiệu về Thầy Thích Nhất Hạnh

Thích Nhất Hạnh, tên thật là Nguyễn Xuân Bảo, là một trong những nhà sư Phật giáo nổi tiếng và được tôn trọng nhất trong thế kỷ 20 và 21. Ông sinh ngày 11 tháng 10 năm 1926 tại Huế, Việt Nam. Thích Nhất Hạnh đã có một hành trình tu tập và giáo lý đặc biệt, đóng góp to lớn vào việc giảng dạy về hòa bình, giáo dục và phát triển cá nhân.

Từ nhỏ, Thích Nhất Hạnh đã tỏ ra có sự tài năng và lòng thành sự nghiệp với giáo dục và tu tập Phật pháp. Ông đã trở thành một trong những nhà sư trẻ tuổi nhất được truyền đạt năng lực giảng dạy tại trường Đại học Phật học Từ Hiếu ở Saigon.

Với triết lý “Hành giả không dấu chân”, Thích Nhất Hạnh đề cao sự chú trọng vào hiện tại và thực hành nhận thức cẩn thận trong mọi hoạt động hàng ngày. Ông cũng nổi tiếng với phong cách giảng dạy dễ hiểu và thực tế, điều này đã giúp ông truyền bá triết lý Phật giáo đến với một lượng lớn người trên khắp thế giới, không chỉ trong cộng đồng Phật tử mà còn ở các tầng lớp xã hội khác.

Bên cạnh việc là một nhà sư, Thích Nhất Hạnh còn là một nhà văn và nhà hoạt động vì hòa bình. Ông đã đóng góp rất nhiều cho các nỗ lực giải quyết xung đột và xây dựng hòa bình trên thế giới. Đặc biệt, ông được tôn vinh với giải thưởng Nobel Hòa bình vào năm 2015 vì những đóng góp xuất sắc của mình trong việc giảng dạy và thúc đẩy sự hòa bình, sự thấu hiểu và sự nhận thức tại thế giới.

Hành trình tu tập và giáo lý của Thầy Thích Nhất Hạnh

Hành trình tu tập và giáo lý của Thích Nhất Hạnh là một chặng đường dài và sâu sắc, đánh dấu bằng sự cống hiến và nhẫn nại của một nhà sư Phật giáo xuất sắc. Dưới đây là một tóm tắt về hành trình này:

  1. Tuổi thơ và nhập môn: Thích Nhất Hạnh sinh vào năm 1926 tại Huế, Việt Nam. Từ nhỏ, ông đã thể hiện sự tương tế và sự mong mỏi về hành trình tu tập. Vào tuổi 16, ông đã tham gia vào một tu viện Phật giáo và bắt đầu hành trình tu học của mình.
  2. Hình thành triết lý và phong cách tu tập: Thích Nhất Hạnh được biết đến với triết lý của mình, trong đó tôn trọng sự chú trọng vào hiện tại và thực hành nhận thức cẩn thận trong mọi hoạt động hàng ngày. Phong cách tu tập của ông là sự kết hợp giữa giáo lý truyền thống Phật giáo và các phương pháp thực hành đời sống hàng ngày.
  3. Những giáo lý nổi bật: Thích Nhất Hạnh đã truyền bá những giáo lý cơ bản của Phật giáo, như lòng từ bi, sự chú ý và sự nhẹ nhàng. Ông đã dạy rằng, thông qua việc thực hành nhận thức, chúng ta có thể giải phóng bản thân khỏi sự khổ đau và đạt được sự an lạc trong cuộc sống.
  4. Triết lý về hòa bình và giáo dục: Ngoài việc là một nhà sư, Thích Nhất Hạnh còn là một nhà văn và nhà hoạt động vì hòa bình. Ông đã đóng góp rất nhiều cho các nỗ lực giải quyết xung đột và xây dựng hòa bình trên thế giới thông qua việc giảng dạy và thúc đẩy sự hòa bình, sự thấu hiểu và sự nhận thức.

Hành trình tu tập và giáo lý của Thích Nhất Hạnh không chỉ là một chặng đường cá nhân mà còn là một nguồn cảm hứng và hướng dẫn cho hàng triệu người trên khắp thế giới trong việc tìm kiếm sự thấu hiểu và hạnh phúc thực sự.

Đóng góp vào hòa bình và giáo dục của Thích Nhất Hạnh

Thích Nhất Hạnh không chỉ là một nhà sư Phật giáo, mà còn là một nhà văn, nhà hoạt động xã hội và một nhà hòa bình xuất sắc. Đóng góp của ông vào hòa bình và giáo dục đã để lại dấu ấn sâu sắc trên thế giới, đặc biệt là trong các lĩnh vực sau:

  1. Hòa bình và giải quyết xung đột: Thích Nhất Hạnh đã tích cực tham gia vào các nỗ lực giải quyết xung đột và xây dựng hòa bình trên khắp thế giới. Ông đã đặc biệt chú trọng vào việc thúc đẩy sự hiểu biết và thấu hiểu giữa các bên xung đột thông qua việc tạo ra các diễn đàn gặp gỡ, trò chuyện và giảng dạy về nghệ thuật làm thế nào để sống hòa bình và đồng cảm với nhau.
  2. Giáo dục và phát triển cá nhân: Thích Nhất Hạnh đã có những đóng góp đáng kể vào lĩnh vực giáo dục và phát triển cá nhân. Ông đã viết nhiều sách về cách thức sống hòa bình, tư duy tích cực và nhận thức cẩn thận, giúp hàng triệu người trên khắp thế giới hiểu biết và áp dụng những giáo lý Phật giáo vào cuộc sống hàng ngày.
  3. Hoạt động tại các tổ chức quốc tế: Thích Nhất Hạnh đã làm việc với nhiều tổ chức quốc tế, như Liên Hiệp Quốc và UNESCO, để thúc đẩy các giải pháp hòa bình và phát triển bền vững trên toàn cầu. Ông cũng đã nhận được nhiều giải thưởng và vinh dự về sự đóng góp của mình vào hòa bình và giáo dục.
  4. Hình thành thế hệ tương lai: Thích Nhất Hạnh đã thành lập nhiều trung tâm tu tập và giáo dục trên khắp thế giới, giúp hình thành và nuôi dưỡng thế hệ trẻ với tư duy hòa bình, sự nhận thức và lòng từ bi, từ đó góp phần vào sự phát triển của xã hội và hòa bình thế giới.

Tóm lại, thông qua những hoạt động và công việc đa dạng, Thích Nhất Hạnh đã có một đóng góp to lớn vào việc thúc đẩy hòa bình, sự hiểu biết và phát triển cá nhân trên khắp thế giới. Ông là một nguồn cảm hứng không ngừng cho hàng triệu người trên toàn thế giới.

Trọn bộ sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh (25 cuốn)

Cuộc sống xung quanh chúng ta luôn đầy màu sắc, và chánh niệm chính là trái tim của hành trình tu tập, là nguồn năng lượng không ngừng lan tỏa. Người sống trong chánh niệm, trong tâm an, sẽ lan tỏa sự vui vẻ, an lạc cho mọi người xung quanh và thậm chí có thể thay đổi cả xã hội. Thích Nhất Hạnh đã dạy rằng: “Tất cả chúng ta đều có hạt giống của niềm vui và định”.

Chánh niệm là nguồn gốc, là động lực để con người cảm nhận sự sống một cách thực sự, không chỉ là tồn tại. Sự tương tác với cuộc đời trở nên tươi đẹp không qua đôi mắt mà qua hơi thở và tâm hồn.

Thiền sư Lâm Tế đã dạy rằng: “Phép lạ là đi trên mặt đất mà không bị mắc kẹt trong vướng bận”. Sự thả lỏng và không gượng ép là bước đầu tiên của thiền tập. Sống không uổng phí một đời, sống trọn vẹn từng khoảnh khắc, từng hành động.

Bước đi một cách thoải mái, an lạc, đi như không đi sẽ không làm ta cảm thấy mệt mỏi. Sự cố gắng không cần thiết nếu ta hiểu rằng mỗi bước đi là một trải nghiệm cuộc sống, là một chạm vào sự màu nhiệm vô tận. Chạm vào đất Mẹ là nguồn căn của “Sám Pháp địa xúc”.

Thích Nhất Hạnh đã truyền đạt rằng, năm giới tân tu – bảo vệ sự sống, hạnh phúc chân thật, tình thương đích thực, lắng nghe và ái ngữ, nuôi dưỡng và trị liệu – là năm phép thực tập chánh niệm, giúp chúng ta loại bỏ mọi rào cản, từ hận thù đến tuyệt vọng, để có thể sống cuộc đời đáng sống.

Mời các bạn đón đọc bộ sách của thầy Thích Nhất Hạnh:

1. Gieo trồng hạnh phúc (89.000đ)

2. Muốn an được an (65.000đ)

3. Con đường chuyển hóa (89.000đ)

4. Tay thầy trong tay con (119.000đ)

5. Thiền sư Khương Tăng Hội (85.000d)

6. Hạnh phúc cầm tay (75.000đ)

7. Đạo Phật ngày nay (49.000đ)

8. Đạo Phật đi vào cuộc đời (79.000đ) 

9. Tìm bình yên trong gia đình (99.000đ)

10. Tĩnh lặng (69.000đ)

11. Hướng đi của đạo Bụt cho hòa bình và sinh môi (85.000đ)

12. Bụt là hình hài, Bụt là tâm thức (99.000đ)

13. Con đã có đường đi (199.000đ)

14. Hỏi đáp từ trái tim (149.000đ)

15. Để có một tương lai (155.000đ)

16. Thiết lập tịnh độ (129.000đ)

17. Fear: Sợ hãi (109.000đ)

18. Trồng một nụ cười (199.000đ) 

19Đạo Phật của tuổi trẻ (139.000đ)

20Đi gặp mùa xuân (359.000đ)

21. Thầy cô giáo hạnh phúc sẽ thay đổi thế giới – Tập 1: Cẩm nang hạnh phúc (129.000đ)

22. Thầy cô giáo hạnh phúc sẽ thay đổi thế giới tập 2 (99.000đ)

22. Đạo Phật hiện đại hoá (109.000đ)

23. Đạo Phật áp dụng vào đời sống hằng ngày (89.000đ)

24. Trái tim của Bụt (269.000đ)

                   

 

                   

Tác phẩm thơ – truyện – khảo luận của thầy Thích Nhất Hạnh (theo Wikipedia)

Thích Nhất Hạnh đã xuất bản trên 100 cuốn sách, trong đó có hơn 70 cuốn bằng tiếng Anh. Ông cũng xuất bản các bài giảng trong các tạp chí tạp chí Mindfulness Bell của Dòng tu Tiếp Hiện.

Danh sách các tác phẩm đã xuất bản (không đầy đủ):

Thơ

  • Tiếng hát chiều thu, Long Giang, Sài Gòn, 1949.
  • Ánh xuân vàng (bút danh: Hoàng Hoa), Long Giang, Sài Gòn, 1950.
  • Thơ ngụ ngôn (bút danh: Hoàng Hoa), Đuốc Tuệ, Hà Nội, 1950.
  • Chắp tay nguyện cầu cho bồ câu trắng hiện, Lá Bối, Sài Gòn, 1965.
  • Tiếng đập cánh loài chim lớn, Lá Bối, Sài Gòn, 1967.
  • Bông hồng cài áo, Sài Gòn, 1962.
  • Vietnam Poems, Unicorn Press, Santa Barbara (Hoa Kỳ), 1967.
  • The Cry of Vietnam, Unicorn Press, Santa Barbara (Hoa Kỳ), 1968.
  • De Schreeuw van Vietnam, Uitgeverij Ten Have, Baarn, Holland, 1970.
  • Zen Poems, Unicorn Press, Greensboro (Hoa Kỳ), 1976.

Ngoài ra còn có nhiều tập thơ chép tay đã mất hoặc chưa xuất bản cùng nhiều tác phẩm khác đăng rải rác trên các báo, tạp chí.[48]

Truyện

  • Tình người (tập truyện; bút danh: Tâm Quán), 1951; Lá Bối 1973.
  • Nẻo về của ý (bút ký), Lá Bối 1967; An Tiêm 1972.
  • Am mây ngủ (truyện ngoại sử), Lá Bối.
  • Bưởi (tập truyện ngắn), Lá Bối.
  • Tố (tập truyện), Lá Bối.
  • Văn Lang dị sử (truyện cổ tích, bút danh Nguyễn Lang), Lá Bối; An Tiêm 1975.
  • Đường xưa mây trắng, Lá Bối; Nhà xuất bản Văn hóa Sài Gòn, 2007.
  • Truyện Kiều dịch ra văn xuôi, Nhà xuất bản Văn hóa Sài Gòn.
  • Truyện tranh Coconut – Monk, xuất bản ngày 25 tháng 1 năm 2006 bởi Nhà xuất bản Plum Blossom Books.
  • Con gà đẻ trứng vàng, 2018.

Khảo luận

  • Đông phương luận lý học, Hương Quê 1950.
  • Vấn đề nhận thức trong Duy Thức học, Lá Bối 1969.
  • Tương lai văn hóa Việt Nam, Lá Bối.
  • Tương lai Thiền học Việt Nam, Lá Bối.
  • Việt Nam Phật giáo sử luận (bút danh Nguyễn Lang), 3 tập, tập 1: Lá Bối 1974, 2 tập sau xuất bản ở nước ngoài sau 1975.
  • Thả một bè lau, Nhà xuất bản Văn hóa Sài Gòn 2008.
  • Những con đường đưa về núi Thứu .
  • Làng mai nhìn về núi Thứu.
  • Đập vỡ vỏ hồ đào.
  • Sen búp từng cánh hé.

Khác

  • Gia đình tin Phật, Đuốc Tuệ 1952
  • Bông hồng cài áo, viết vào mùa Vu lan 1962; Lá Bối xuất bản lần 2, 1965
  • Đạo Phật đi vào cuộc đời, Lá Bối 1964
  • Đạo Phật ngày nay, Lá Bối 1965
  • Nói với tuổi hai mươi, Lá Bối 1966, 1972
  • Phật giáo Việt Nam và hướng đi nhân bản đích thực (bút danh Trần Thạc Đức), Lá Bối 1967
  • Đạo Phật hiện đại hóa, Lá Bối 1965, 1968
  • Đạo Phật ngày mai, Lá Bối 1970
  • Nẻo vào thiền học, Lá Bối 1971
  • Đạo Phật áp dụng vào đời sống hàng ngày, Viện Hóa Đạo xuất bản 1973
  • Tuổi trẻ tình yêu lý tưởng, Lá Bối
  • Kiều và văn nghệ đứt ruột, Lá Bối, USA, 1994
  • The Miracle of Mindfulness: A Manual on Meditation, Beacon Press, 1999, ISBN 0-8070-1239-4 (Vietnamese: Phép lạ của sự tỉnh thức)
  • Phép lạ của sự tỉnh thức, Nhà xuất bản Tôn giáo
  • Đi như một dòng sông
  • An lạc từng bước chân
  • Trái tim của Bụt, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 2006
  • Hạnh phúc: mộng và thực Nhà xuất bản Văn hóa Sài Gòn, 2009
  • Kim Cương: Gươm báu cắt đứt phiền não, Nhà xuất bản Văn hóa Sài Gòn, 2009
  • Giận Nhà xuất bản Thanh niên, 2009
  • Tĩnh lặng. Nhà xuất bản Thế giới 2018
  • Không diệt không sinh đừng sợ hãi. Nhà xuất bản Hội nhà văn, 2019
  • Từng bước nở hoa sen. Nhà xuất bản Văn hoá – Văn nghệ TP HCM, 2018

 

Thầy Thích Nhất Hạnh Thành lập Làng Mai tại Pháp

Trong thời gian vận động hòa bình cho Việt Nam, Thiền sư vẫn tiếp tục công việc viết lách, giảng dạy về nghệ thuật sống chánh niệm và chế tác bình an. Đầu những năm 70, Thiền sư vừa nghiên cứu và giảng dạy về lịch sử Phật giáo Việt Nam tại đại học Sorbonne, Paris. Năm 1975, Người thành lập một cộng đồng tu học gần Paris có tên là Phương Vân Am. Đến năm 1982, Phương Vân Am trở nên quá nhỏ cho số người muốn đến tu học, vì vậy tăng thân đã chuyển đến một địa điểm mới ở vùng Dordogne, miền Nam nước Pháp. Nơi này về sau có tên là Làng Mai.

 

Những ngày đầu của Làng Mai

 

Dưới sự chỉ dạy tinh thần của Thiền sư, từ một nông trại nhỏ, Làng Mai đã phát triển thành một tu viện Phật giáo lớn nhất và sôi động nhất ở châu Âu. Hơn 200 xuất sĩ thường trú và hơn 10 ngàn thiền sinh từ khắp nơi trên thế giới đến Làng Mai mỗi năm để tìm hiểu về “nghệ thuật sống chánh niệm”.

Thiền sinh, bất kể tuổi tác, quốc gia hay tôn giáo, khi đến Làng Mai đều được hướng dẫn về cách thực hành thiền tọa, thiền hành, thiền ăn, thiền buông thư, và thiền trong công việc, học cách dừng lại, mỉm cười và quay về với hơi thở. Dựa trên những nguyên lý căn bản của đạo Phật, các phương pháp này đã được Thiền sư phát triển và dễ dàng áp dụng vào cuộc sống hàng ngày, giải quyết những khó khăn và thách thức của thời đại.

Hiện nay, có hơn 100.000 người đã nhận và tu hành theo Năm giới quý báu mà Thiền sư đã tái khám phá dựa trên truyền thống Năm giới. Theo Thiền sư, Năm giới tân tu này là một đóng góp của đạo Phật cho một nền đạo đức toàn cầu.

 

Pháp thoại cho trẻ em tại thiền đường Nước Tĩnh, xóm Thượng, Làng Mai

Những câu nói hay của Thiền sư Thích Nhất Hạnh

1. Bởi vì bạn đang sống nên mọi thứ đều có thể thành sự thật.

2. Cội nguồn của tình yêu nằm sâu trong mỗi chúng ta. Chúng ta có thể giúp người khác hạnh phúc. Một lời nói, một hành động, một suy nghĩ cũng có thể làm vơi nỗi buồn và tăng hạnh phúc cho người khác.

3. Con người đau khổ là vì các thành kiến. Khi nhìn mọi thứ cởi mở hơn, chúng ta sẽ tự do và chẳng còn khổ đau nữa.

4. Vì bạn cười, bạn làm cuộc sống này đẹp hơn.

5. Nếu bạn yêu ai đó, món quà quý nhất bạn có thể tặng họ là sự có mặt của mình.

6. Tôi hứa với bản thân mình rằng tôi sẽ tận hưởng từng phút của ngày hôm đó cho tôi sống.

7. Nhiều người nghĩ rằng sự phấn khích là hạnh phúc… Nhưng khi bạn đang phấn khích, bạn không bình yên. Hạnh phúc thật sự được dựa trên sự bình yên.

8. Cảm giác đến và đi như những đám mây trên bầu trời lộng gió. Ý thức về hơi thở là nơi nương tựa của tôi.

9. Thấu hiểu nỗi đau của người khác là món quà to lớn nhất mà bạn có thể trao tặng họ. Thấu hiểu là tên gọi khác của yêu thương. Nếu bạn không thể thấu hiểu, thì bạn chẳng thể yêu thương.

Những câu nói chiêm nghiệm cuộc sống của Thiền sư Thích Nhất Hạnh

10. Đôi khi niềm vui mang tới nụ cười. Nhưng cũng đôi khi, chính nụ cười mang tới niềm vui.

11. Mọi người thường xem xét việc đi trên mặt nước hoặc trong không khí mong một phép lạ. Nhưng tôi nghĩ rằng phép lạ thực sự không phải là đi bộ hoặc nước hoặc trong không khí, mà là bước đi trên trái đất. Mỗi ngày chúng ta đang tham gia vào một phép lạ mà chúng ta thậm chí không nhận ra: một bầu trời xanh, mây trắng, lá xanh, màu đen từ đôi mắt tò mò của một đứa trẻ – đôi mắt của chính chúng ta. Tất cả là một phép lạ.

12. Hãy mỉm cười, hít thở và đi từ từ.

13. Thức dậy buổi sáng này, tôi mỉm cười. Hai mươi bốn giờ mới trước mắt tôi. Tôi nguyện sống trọn vẹn trong từng thời điểm và xem xét tất cả chúng sinh với đôi mắt của lòng từ bi.

14. Hạnh phúc là được là chính mình. Bạn không cần phải được thừa nhận bởi người khác. Chỉ cần chính bạn thừa nhận mình là được rồi.

15. Nếu chúng ta bình an, chúng ta hạnh phúc, chúng ta có thể cười. Và mọi người trong gia đình, trong xã hội có thể hưởng niềm vui từ chính sự bình an của ta.

16. Sự hiểu biết có nghĩa là vứt đi kiến thức của bạn.

17. Từ bi là một động từ.

18. Quá khứ đã qua, tương lai thì chưa đến, và nếu chúng ta không quay trở lại với chính bản thân mình trong thời điểm hiện tại, chúng ta không thể bắt nhịp với cuộc sống.

Những câu nói hay của Thiền sư Thích Nhất Hạnh

19. Uống trà của bạn từ từ và cung kính, như thể nó là trục trái đất trên thế giới xoay chậm, đều, không vội vã hướng tới tương lai.

20. Hy vọng là quan trọng bởi vì nó có thể làm cho giây phút hiện tại không khó để chịu đựng. Nếu chúng ta tin rằng ngày mai sẽ tốt hơn, chúng ta có thể chịu đựng khó khăn hôm nay.

21. Cuộc sống chỉ có trong giây phút hiện tại.

22. Hành động của tôi nói lên tôi là ai.

23. Nói “Tôi yêu bạn” có nghĩa là “Tôi có thể mang tới cho bạn sự bình yên và hạnh phúc”. Để làm được điều đó, trước tiên, chính bạn phải là người có được những điều đó đã

24. Một người tức giận là do không giải quyết được những đau buồn của mình. Họ là nạn nhân đầu tiên của sự đau buồn đó, còn bạn là người thứ hai. Hiểu được điều này, lòng từ bi sẽ nảy nở trong tim và sự tức giận sẽ tan biến. Đừng trừng phạt họ, thay vào đó, hãy nói gì đó, làm gì đó để vơi bớt nỗi đau buồn.

25. Mọi người thường nói về việc nhập niết bàn. Nhưng chúng ta đã ở đó rồi.

Một suy nghĩ về “Sách của thầy Thích Nhất Hạnh”
  1. tuấn nghĩa book
    tuấn nghĩa book

    Bài viết rất chi tiết

  2. tuấn nghĩa book
    tuấn nghĩa book

    Những điều ít biết về thiền sư Thích Nhất Hạnh

    Thiền sư Thích Nhất Hạnh sinh năm 1926 tại Thừa Thiên – Huế với tên khai sinh là Nguyễn Xuân Bảo. Theo tư liệu của tăng đoàn Làng Mai, năm lên bốn tuổi, cha ông được phái đến vùng miền núi phía Bắc tỉnh Thanh Hóa, để giám sát việc khai phá rừng làm đất canh tác cho nông dân nghèo. Một năm sau, cả gia đình ông chuyển về đây sống cùng với cha. Ông ghi danh đi học tại đây. Vốn hiếu học, ngoài giờ ở trường, cậu bé Xuân Bảo còn học thêm quốc ngữ, tiếng Pháp, tiếng Hán cổ.

    Từ nhỏ cậu rất thích thú đọc những cuốn sách hoặc tờ báo Phật giáo mà anh trai mang về.

    Sau này trong nhiều bài pháp thoại, thiền sư thường nhớ lại khoảnh khắc vô cùng quan trọng, vào năm lên chín tuổi. Khi đó, cậu bé tình cờ nhìn thấy hình Phật trên trang bìa một tạp chí. Hình ảnh Phật ngồi an nhiên trên bãi cỏ với nụ cười từ bi đã chiếm lấy tâm trí cậu bé và để lại dấu ấn sâu đậm về sự bình an, tĩnh lặng. Hình ảnh ấy tương phản với những khổ đau và bất công mà cậu thấy xung quanh, khi đất nước bị người Pháp đô hộ. Bức hình đánh thức ước muốn mãnh liệt trong cậu bé, là được giống như Phật, tĩnh lặng, bình an, thảnh thơi và giúp những người xung quanh được như vậy.

  3. tuấn nghĩa book
    tuấn nghĩa book

    Không chỉ là một bậc thầy tâm linh, Thiền sư còn là một nhà văn, nhà thơ, một nghệ sĩ. Từ năm 2010, những tác phẩm thư pháp nổi tiếng của Thiền sư – với các câu thiền ngữ ngắn chuyên chở thông điệp về sự thực tập chánh niệm – đã được triển lãm tại Hồng Kông, Đài Loan, Canada, Đức, Pháp và Hoa Kỳ.

    Trong mười năm qua, Thiền sư đã thành lập các trung tâm tu học theo truyền thống Làng Mai tại California, New York, Mississippi, Việt Nam, Paris, Hồng Kông, Thái Lan, Úc và Viện Phật học Ứng dụng châu Âu (EIAB) tại Đức.

    Tại các trung tâm tu học này thường có những khóa tu đặc biệt dành cho doanh nhân, giáo viên, gia đình, các nhân viên y tế, các nhà tâm lý trị liệu, các chính trị gia, người trẻ, cũng như các cựu chiến binh. Ngoài ra, Thiền sư và tăng thân Làng Mai cũng đã từng tổ chức khóa tu cho cả người Israel và Palestine. Ước tính mỗi năm có khoảng hơn 75.000 người tham gia tu học cùng tăng thân Làng Mai trên khắp thế giới.

  4. tuấn nghĩa book
    tuấn nghĩa book

    Thời thơ ấu

    Thiền sư Thích Nhất Hạnh, tên khai sinh là Nguyễn Đình Lang, sinh ngày 11 tháng 10 năm 1926 trong một đại gia đình tại cố đô Huế, miền Trung Việt Nam[i]. Cha của Thầy là Nguyễn Đình Phúc, người làng Thành Trung (nay thuộc huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế). Ông làm quan trong triều đình nhà Nguyễn thời Pháp thuộc, đảm trách công việc di dân lập ấp. Mẹ là bà Trần Thị Dĩ, người làng Hà Trung, tỉnh Quảng Trị[ii]. Thầy là con áp út trong số sáu người con. Thầy có ba người anh lớn, một người chị và một em trai út sinh sau Thầy không lâu. Cho đến khi lên năm tuổi, Thầy sống trong nhà của ông bà nội cùng với đại gia đình gồm các chú bác và anh em họ. Đó là một ngôi nhà lớn có sân, vườn trong thành nội.

    Năm Thầy lên bốn tuổi, cha của Thầy được phái đến vùng miền núi ở phía Bắc tỉnh Thanh Hóa, cách nhà khoảng 500 cây số, để giám sát việc khai phá rừng làm đất canh tác cho nông dân nghèo. Một năm sau đó, cả gia đình Thầy chuyển về huyện Nông Cống, Thanh Hóa để sống cùng với cha. Thầy học tiểu học ở đó và khi nghỉ hè thì đi học thêm ở các lớp dạy tư tại nhà. Thầy được ghi danh đi học với tên mà cha mẹ đặt cho là Nguyễn Đình Lang. Vốn hiếu học, ngoài giờ ở trường, Thầy còn dành thời gian rảnh để trau dồi thêm quốc ngữ, tiếng Pháp và tiếng Hán cổ. Thầy thích thú đọc những cuốn sách hay những tờ báo Phật giáo mà anh Nho, anh trai của Thầy, đem về nhà. Đây là người anh mà Thầy rất thương kính và ngưỡng mộ. Anh Nho cũng dạy Thầy cách vẽ truyền thần, thậm chí còn dạy Thầy cả cách chụp và rửa ảnh từ một cái máy do anh tự chế.

    Trong nhiều bài pháp thoại sau này, Thầy thường nhớ lại một khoảnh khắc vô cùng quan trọng, có lẽ vào năm Thầy lên chín tuổi, đó là khi Thầy tình cờ nhìn thấy hình Bụt trên bìa của một tạp chí Phật giáo mà anh Nho mang về. Hình ảnh Bụt ngồi thật an nhiên trên bãi cỏ với nụ cười từ bi đã chiếm lấy tâm trí của cậu bé và để lại trong cậu một dấu ấn sâu đậm về sự bình an và tĩnh lặng. Hình ảnh ấy thật tương phản với những khổ đau và bất công mà cậu nhìn thấy xung quanh mình, trong bối cảnh đất nước nằm dưới sự đô hộ của người Pháp. Bức hình đã đánh thức ước muốn rất rõ ràng và mãnh liệt trong lòng cậu bé, ước muốn được giống như Bụt – hiện thân của sự tĩnh lặng, bình an, thảnh thơi – và có thể giúp những người xung quanh cũng làm được như vậy[iii]. Năm Thầy khoảng mười một tuổi, vào một buổi tối sau khi ăn cơm xong, Thầy cùng các anh trai và hai người bạn ngồi chơi, trò chuyện với nhau về ước muốn mình sẽ làm gì khi lớn lên. Có người muốn làm bác sĩ, có người muốn làm luật sư. Anh Nho của Thầy là người đầu tiên trong nhóm muốn trở thành một người tu. Ban đầu, ý tưởng đi tu thật là mới mẻ với những người còn lại trong nhóm, nhưng sau một hồi nói chuyện với nhau thì cả nhóm đều đồng ý là sẽ đi tu hết. Sau này Thầy có nói: “Trong buổi nói chuyện đó, có một ước muốn đi lên trong thầy rất rõ ràng. Thầy biết là tận sâu trong lòng mình, thầy muốn làm một người tu”[iv].

    Khoảng sáu tháng sau đó, trong một chuyến đi dã ngoại do trường tổ chức tới một ngọn núi thiêng trong vùng, cậu bé đã có được sự trải nghiệm tâm linh đầu tiên, theo như Thầy diễn tả sau này[v]. Khi các bạn cùng lớp ngồi ăn trưa, cậu đã háo hức một mình đi khám phá ngọn núi này, vì nghe nói có một ông đạo sống trên núi[vi]. Cậu không tìm được ông đạo nhưng, vừa khát vừa mệt, cậu tình cờ thấy một cái giếng thiên nhiên có nước rất mát và tinh khiết. Cậu bé vốc nước uống rồi nằm xuống tảng đá cạnh bên ngủ một giấc ngon lành. Trải nghiệm đó đem đến cho cậu một cảm giác mãn ý vô cùng sâu sắc. Cậu có cảm tưởng mình đã gặp được ông đạo dưới hình thức cái giếng và đã tìm được một thứ nước ngon nhất trên đời để thỏa mãn cơn khát[vii]. Trong đầu cậu bé đi lên một câu tiếng Pháp: J’ai gouté l’eau la plus délicieuse du monde (tôi đã nếm được thứ nước ngon nhất trên đời). Từ ngày ấy trở đi, cậu nuôi ước muốn xuất gia.

    Năm Thầy lên 12 tuổi, anh Nho quyết định xuất gia. Con đường mà anh Nho – người anh mà thầy vô cùng quý kính – chọn để bước đi đã gây cảm hứng cho Thầy. Anh Nho xuất gia tại chùa Đại Bi ở Thanh Hóa, cách nhà khoảng 15km[viii]. Thời gian đó, rất khó để cha mẹ chấp nhận chọn lựa này của anh Nho, bởi vì cha mẹ biết rằng cuộc sống của một người xuất gia có thể rất khó khăn. Dù vậy Thầy vẫn muốn xuất gia cùng với anh, nhưng Thầy đã chờ cho đến khi được cha mẹ cho phép. Mặc dù tuổi còn nhỏ nhưng những bài viết và các câu chuyện Phật giáo mà Thầy được đọc đã gây cảm hứng và cho Thầy ý tưởng là đạo Bụt có thể giúp mang lại nhiều công bằng, tự do và thịnh vượng hơn cho xã hội Việt Nam[ix]. Không lâu sau đó, anh Nho đã được Ôn Trú trì chùa Đại Bi, Thiền sư Trừng Pháp Chân Không gửi đi Huế để tiếp tục tu học tại chùa Từ Hiếu. Thầy rất háo hức muốn được đi cùng. Cuối cùng thì cha mẹ đã đồng ý cho Thầy thực hiện ước mơ xuất gia, Thầy theo anh Nho vượt 500 cây số đường dài ngược về phía Nam.

    Năm 1942, lúc 16 tuổi, Thầy được xuất gia với thầy bổn sư là thiền sư Chân Thật (1884-1968), thuộc dòng thiền Lâm Tế chánh tông và phái Liễu Quán[x]. Lúc mới vào chùa, Thầy được gọi là Điệu Sung. Ba năm sau, vào sáng sớm ngày rằm tháng 9 (âm lịch) năm 1945, Thầy chính thức được thọ giới sa di. Khi thọ Năm giới, Thầy được nhận pháp danh là Trừng Quang, nghĩa là ánh sáng tịch tĩnh. Khi thọ giới sa di, Thầy được bổn sư đặt pháp tự là Phùng Xuân 逢春, có nghĩa là “đi gặp mùa xuân“. Đây là tên mà Thầy được gọi trong chùa.

  5. tuấn nghĩa book
    tuấn nghĩa book

    Về lại Việt Nam
    Năm 2005, sau một năm thương thuyết – đúng dịp Việt Nam nộp đơn xin gia nhập Tổ chức thương Mại Thế giới (WTO), Chính phủ Việt Nam cuối cùng đã cho phép Thầy trở về quê hương, cùng một phái đoàn với hơn 200 đệ tử sau 39 năm bị lưu vong.

    Thầy đã cho pháp thoại công cộng và hướng dẫn các khóa tu, và một số sách của Thầy cuối cùng cũng được phép chính thức xuất bản tại Việt Nam[i]. Dù chương trình sinh hoạt của tăng đoàn không được phép quảng bá trên các phương tiện truyền thông và nằm dưới sự kiểm soát rất chặt chẽ của chính quyền, những ngày quán niệm và các khóa tu do Thầy hướng dẫn vẫn có hàng ngàn người tham dự. Hàng trăm người trẻ muốn xuất gia với Thầy được chào đón tại Bát Nhã, một tu viện mới được thành lập tại cao nguyên Lâm Đồng, không xa Phương Bối[ii]. Năm 2007, Thầy trở lại Việt Nam để chủ trì ba Đại trai đàn chẩn tế bình đẳng giải oan, cầu nguyện cho hàng triệu người đã thiệt mạng trong chiến tranh. Năm 2008, Thầy trở về nước một lần nữa để cho một bài phát biểu quan trọng nhân dịp đại lễ Phật Đản quốc tế (Vesak) do Liên Hiệp Quốc tổ chức tại Hà Nội[iii]. Trong ba lần về thăm quê hương, Thầy đều có các cuộc gặp gỡ với các nhà lãnh đạo của Nhà nước Việt Nam[iv]. Trong những cuộc gặp này, cũng như trong những lần Thầy gặp gỡ các nhà lãnh đạo của Quốc hội Hoa Kỳ, Quốc hội Ấn Độ, Quốc hội Anh hay Quốc hội Bắc Ireland, Thầy đều đưa ra những lời khuyến nghị để giúp đem lại một nền đạo đức, thịnh vượng và tiến bộ trên các lĩnh vực như xã hội dân sự, giáo dục và quan hệ quốc tế.

    Thế nhưng những điều kiện thuận lợi đó không kéo dài được bao lâu. Sự phát triển quá nhanh chóng của tu viện Bát Nhã, với 400 xuất sĩ và có đến hàng trăm người trẻ đến tu học hàng tháng đã khiến chính quyền Việt Nam lo ngại và coi đây là một mối đe doạ. Vào ngày 27 tháng 9 năm 2009, sau nhiều tháng bị quấy nhiễu, tất cả vị xuất gia đã bị buộc phải rời khỏi Bát Nhã theo từng nhóm nhỏ để xin tá túc tại một số tự viện hiếm hoi dám mạo hiểm mở cửa che chở họ. Ngày nay, các thầy và các sư cô Bát Nhã ấy đã trở thành những giáo thọ trẻ phụng sự trong các tu viện của Làng Mai đang phát triển bên ngoài Việt Nam, tại châu Âu, châu Mỹ và châu Á. Một loạt các tu viện mới được thành lập ở khắp nơi sau sự kiện Bát Nhã năm 2007, bao gồm tu viện Bích Nham ở phía bắc ngoại ô New York, Thiền đường Hơi Thở Nhẹ ở Paris, Trung tâm Làng Mai quốc tế Thái Lan tại Khaoyai, tu viện Mộc Lan tại Mississipi (Hoa Kỳ), Viện Phật học Ứng dụng Á Châu tại đảo Lantau Hongkong, Tu viện Nhập Lưu ở bang Victoria, Úc[v].

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *